Đăng vào 2/24/2022
Trong các video làm về người DTTS hoặc có xuất hiện hình ảnh người dân tộc thiểu số trên nền tảng Youtube, dễ dàng bắt gặp ba chủ đề phổ biến nhất là 1) phim ngắn, tiểu phẩm hài, thường có kịch bản và nội dung được sắp đặt; 2) video giới thiệu về các phong tục, tập quán; 3) video làm từ thiện.
Năm 2020 ghi dấu nhiều phản biện truyền thông đến từ các cộng đồng dân tộc thiểu số (DTTS). Cách đây hơn một năm, Ủy ban dân tộc đã có công văn gửi Cục Phát thành Truyền hình và Thông tin điện tử (Bộ Thông tin-Truyền thông) đề nghị xử lý kênh Youtube A Hy TV sau khi nhận được phản ánh của cộng đồng DTTS.
Có nhiều video vi phạm sau đó đã bị gỡ xuống, tuy nhiên cho đến thời điểm hiện tại, những video với nội dung mang định kiến và bôi nhọ người DTTS vẫn xuất hiện rất nhiều trên Youtube, kênh A Hy TV vẫn tiếp tục được duy trì và đăng tải với tần suất dày đặc những video phản cảm có nhân vật là người DTTS.
Trong các video làm về người DTTS hoặc có xuất hiện hình ảnh người dân tộc thiểu số trên nền tảng Youtube, dễ dàng bắt gặp ba chủ đề phổ biến nhất là 1) phim ngắn, tiểu phẩm hài, thường có kịch bản và nội dung được sắp đặt; 2) video giới thiệu về các phong tục, tập quán; 3) video làm từ thiện.
Chỉ bằng việc “mổ xẻ” cách gọi tên và đặt tên người DTTS hoặc nhân vật là người DTTS trong những video này, chúng ta đã có thể nhìn ra những định kiến của người làm video về người DTTS. Video chỉ đăng tải trên Youtube, nhưng định kiến nó phản ánh lại cho thấy những cái nhìn phổ biến ngoài đời thực về người DTTS.
Trong các video dàn dựng dưới dạng phim ngắn hay tiểu phẩm hài làm với mục đích gây cười, các nhân vật thường được đặt cho những cái tên như là "trai bản", "gái bản", "anh tộc", "anh dân tộc", "anh tộc ngố". Cách gọi này không chỉ có trên các sản phẩm hư cấu mà đã trở thành một “thói quen” ăn sâu vào tiềm thức như một lẽ dĩ nhiên của nhiều người.
Theo Nguyễn Công Thảo (2010), đã từ lâu, khi nói về các tộc người thiểu số, đa số người Kinh dùng một khái niệm chung là “người dân tộc”. Ý nghĩa của khái niệm “dân tộc” trong bối cảnh này khác với ý nghĩa dân tộc - quốc gia. Trái lại, nó bao hàm ý “không phải là người Kinh”, là người ở miền núi, vùng cao, xa xôi, hẻo lánh.
Cách gọi tên và đặt tên như vậy cho thấy việc sử dụng người dân tộc thiểu số để mang lại tiếng cười cho người xem là một việc làm phổ biến, bằng việc nhấn mạnh vào việc họ là người DTTS, các video vẽ ra ranh giới giữa người xem - nhân vật, giữa ta - kẻ khác, giữa người Kinh - người DTTS, giữa cao và thấp, và đem lại tiếng cười cho người xem bằng chính căn tính DTTS và những định kiến mang tính hạ thấp với họ.
Ở các video dạng làm từ thiện cho người DTTS, phổ biến cách gọi người DTTS bằng cách gắn liền họ với các tính từ chỉ đặc điểm tiêu cực, hoàn cảnh đời sống kinh tế khó khăn của họ, với trẻ em là hoàn cảnh gia đình không trọn vẹn như "Mang những chiếc áo ấm đến bà con nghèo thôn Chứ Hà Giang", "Đi và gọi những gia đình khó khăn và nhận gạo từ thiện", "Mang Những Tấm Lòng Bồ Tát của Cô Chú ở California Cho Hai Cháu Mồ Côi Bố Lẫn Mẹ", "Tin vui một căn nhà nữa - làm nhà cho A Sùng - Vợ chồng bị ngơ"...
Các video gắn các chủ thể là người DTTS với những tính từ thể hiện sự khó khăn, khốn khổ, tụt lùi của họ. Các kênh với nội dung video làm từ thiện đều kêu gọi sự ủng hộ tiền bạc, vật chất từ người xem để thông qua chủ kênh giúp đỡ được bà con người DTTS.
Việc gắn người DTTS với đặc điểm, hoàn cảnh kinh tế khó khăn bởi lẽ đó là một chiến lược được sử dụng có mục đích của người tạo dựng video, nó khiến họ xuất hiện như những anh hùng, những vị cứu tinh, giúp họ khơi gợi lòng thương cảm, đồng cảm dễ dàng từ phía người xem, để người xem thấy họ đang làm những việc tốt đẹp và từ đó ủng hộ họ về cả tinh thần lẫn vật chất. Những can thiệp trong dạng video làm từ thiện hay “giúp đỡ” người DTTS này đều không có chiến lược cụ thể và lâu dài.
Bên cạnh đó, người DTTS hiện lên trong những video này như những con người thụ động, ỷ lại, chỉ biết trông chờ vào sự cứu giúp từ bên ngoài. Cách gọi tên nhân vật bằng những tính từ chỉ hoàn cảnh khó khăn đã tách chủ thể là người DTTS ra khỏi hoàn cảnh đời sống rộng lớn của họ, bỏ qua những nguyên nhân và tác động có tính cấu trúc của đói nghèo và chỉ chăm chú đến những hiện tượng bề nổi.
Nhiều video để tăng tính hấp dẫn, thu hút người xem đã đề cập đến các phong tục hay kinh nghiệm sống của các cộng đồng DTTS như những thực hành kỳ lạ, khác thường và lạc hậu, điển hình là những video về các tập tục liên quan đến hôn nhân, gia đình hay những món ăn “kinh dị” của người DTTS.
Trước đây, trong trí tưởng tượng của người đồng bằng, miền rừng núi với các tộc người xa lạ dường như luôn ẩn chứa những điều bí hiểm. Ngày nay, mặc dù các câu chuyện đường rừng với nhiều yếu tố hoang đường đã không còn phổ biến do khoảng cách miền xuôi - miền ngược đang ngày càng được thu hẹp lại, nhưng mối quan tâm về những khác lạ trong đời sống văn hóa các tộc người vẫn là một đề tài có sức hấp dẫn người đọc. Có lẽ đây là lý do khiến truyền thông nói chung đặc biệt quan tâm đến những tập tục lạ, mô tả chúng khi thì với màu sắc huyền bí, khi thì dán nhãn chúng là hủ lậu, hoang sơ và mông muội.
Nói tóm lại, ngầm ẩn bên dưới cách gọi tên và đặt tên người DTTS hoặc nhân vật là người DTTS trong các video phổ biến trên Youtube là nhiều định kiến. Những sản phẩm truyền thông này mặt khác cũng phản ánh những mẫu rập khuôn phổ biến về người DTTS. Ngoài những cái tên trên Youtube, những cách gọi liên quan đến người DTTS chúng ta rất dễ bắt gặp xung quanh mình như “người dân tộc”, “miền núi”, “vùng cao”,... còn ẩn chứa điều gì? Hãy đón đọc các bài viết tiếp theo trên page Viện iSEE nhé!
Đăng vào 2/24/2022
Tiếp nối những nghiên cứu về diễn ngôn định kiến với người Dân tộc thiểu số trên báo chí iSEE từng thực hiện vào năm 2011 và năm 2021, chúng tôi muốn mang đến những câu chuyện, những lát cắt ngắn gọn, trực diện hơn qua series bài viết "Hình ảnh người dân tộc thiểu số trên truyền thông."
Đăng vào 2/24/2022
Đến với khóa học “viết đi sợ chi!” các bạn không chỉ bổ sung kiến thức về viết lách, ngoài ra các bạn sẽ được thảo luận, giao lưu với nhiều dân tộc khác nhau trên mọi miền tổ quốc Việt Nam, trong đó có các thành viên của nhóm Tiên Phong thuộc Mạng lưới Tiên Phong vì tiếng nói dân tộc thiểu số Việt Nam.
Đăng vào 2/24/2022
Trong khóa học này, Mạng lưới Tiên Phong Việt Nam đã mời cán bộ truyền thông Bùi Minh Đức, "có hơn 6 năm làm việc trong lĩnh vực viết lách, báo chí và truyền thông, đặc biệt trong các lĩnh vực giáo dục và phát triển. Anh từng làm chủ mục Thế giới tại Kenh14, là dịch giả với 5 cuốn sách đã xuất bản, đồng tác giả của nhiều tập san du lịch, sáng tạo nội dung cho Apple Music..." cùng đồng hành và phụ trách khóa học.